A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Hồi ức thiêng liêng ngày lập nước

QPTĐ-Hà Nội những ngày Thu tháng Tám, trên mọi tuyến đường, ngõ phố rợp cờ hoa chào mừng 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9. Cuộc trò chuyện với bà Phan Thị Phúc, nguyên đội viên Đội Phụ nữ Cứu quốc thành Hoàng Diệu, phu nhân của đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao giúp chúng tôi như được sống lại trong những khoảnh khắc lịch sử đầy tự hào 80 năm về trước. 

Bà Phan Thị Phúc bồi hồi nhớ lại những kí ức thiêng liêng được ghi chép trong Hồi kí về cuộc đời bà.

Cuộc đời cách mạng bắt đầu từ đó

Trong căn nhà cổ yên tĩnh thoang thoảng mùi nguyệt quế trên phố Nguyễn Gia Thiều, dù đã  ngoài 90, bà Phan Thị Phúc vẫn rất mẫn tiệp, chậm rãi kể cho chúng tôi nghe về quá trình tham gia cách mạng khi bà vừa là thiếu nữ tròn 15 tuổi. Mẹ mất sớm, bố làm việc cho chính quyền, từ nhỏ bà đã sinh sống cùng ông nội và chú ruột là nhân sĩ trí thức yêu nước Phan Tư Nghĩa tại ngôi nhà số 75, Hàng Gai. Thời gian đó, ông Phan Tư Nghĩa thường xuyên liên lạc với đồng chí Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt. Nhận được sự tin tưởng của chú, bà được giao nhiệm vụ liên lạc với các cơ sở cách mạng trong nội thành Hà Nội và canh gác cho các đồng chí họp. “Cuộc đời cách mạng của tôi bắt đầu từ đó”, bà Phúc bồi hồi chia sẻ.

Năm 1945, bà Phúc tham gia mặt trận Việt Minh trong tổ chức Phụ nữ cứu quốc do bà Từ Trang giới thiệu. Nhiệm vụ của bà là mang truyền đơn đi dán ở các phố và đến từng nhà tuyên truyền cho Mặt trận Việt Minh. Khi đi dán truyền đơn, đội của bà Phúc thường đi hai người, người đi trước phết hồ lên tường, người đi sau nhanh chóng áp tờ truyền đơn lên rồi di chuyển. Những lần làm nhiệm vụ, bà Phúc phải đối mặt với không ít nguy hiểm. Bà nhớ mãi lần nhận được truyền đơn để trong túi xách, khi bà đi từ phố Cửa Nam về đến Hàng Bông thì thấy lính Nhật đã chăng dây khám xét. Quay lại nhìn phía sau, lính Nhật cũng đã vây kín. “Lúc đó, tim tôi đập dồn dập, không biết làm thế nào. Chợt một ý nghĩ lóe trong đầu, tôi vào một cửa hàng giữa phố Hàng Bông đóng giả là người mua hàng rồi nhanh tay nhét tập truyền đơn vào một khe tủ. Sau đó, tôi đi ra chỗ lính Nhật khám xét, chúng bắt tôi mở túi kiểm tra, không phát hiện gì, chúng mới cho qua. Khi lính Nhật rút đi, tôi quay lại lấy tập truyền đơn còn ở đó mà người chủ cửa hàng vẫn không hay biết”, bà Phúc nhớ lại.

Ngày 19-8, các đội viên của Đội Phụ nữ cứu quốc thành Hoàng Diệu tỏa đi khắp ngả đường biểu tình giành chính quyền. Bà Phan Thị Phúc cùng các nữ sinh khác được phân công chuẩn bị cho nhiệm vụ vận động hàng binh. Một trong những mục tiêu quan trọng được Ủy ban kháng chiến thành phố Hà Nội xác định cần phải đánh chiếm nhanh gọn là Trại Bảo an binh nằm trên phố Hàng Bài. Khi đoàn tiến đến trại Bảo an binh, cổng trại được khóa chặt và phía trong có hàng trăm lính bảo an đồn trú. Dù không chống đối nhưng họ nhất định không chịu mở cửa, bên ngoài còn có 4 xe tăng của Nhật canh ở 4 góc luôn chĩa súng vào ta. Nhận được yêu cầu của anh Thái Hi, tôi vội chạy tìm một chiếc sào để treo lá cờ cầm tay, đi đến đầu Tràng Tiền thì bị lính Nhật ngăn lại. “Chúng giơ ngang gươm cản, còn chị em chúng tôi cứ đưa lá cờ ra phía trước rồi đẩy đi. Khi chúng tôi đến được Trại Bảo an binh, xe tăng Nhật đã đỗ ở đó, có rất đông quần chúng đấu tranh để chiếm trại. Anh em lính bảo an mở cửa ngách để chúng tôi vào, gặp ông Quản Liên là người chỉ huy cao nhất ở đó. Ông cười bảo, “chúng tôi đang chờ xem cách mạng tiếp quản như thế nào, ai ngờ lại là 4 cô thiếu nữ.”-bà Phúc kể. 

Hình ảnh đoàn phụ nữ giơ cờ và hô đả đảo phát xít Nhật giờ đây vẫn hiện rõ trong trí nhớ của bà. Hôm ấy, trước sự đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng, binh lính gác cửa trại buộc phải mở cửa cho các đội viên tuyên truyền xung phong vào. Đội Phụ nữ cứu quốc cũng được vào cùng. Bà Phúc và các chị em chia nhau đi nói chuyện, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Mặt trận Việt Minh với binh lính trong Trại. “Đến gần tối, binh lính giao vũ khí cho các đồng chí của ta. Phụ nữ liền chia nhau đi kiếm rau, lấy gạo, hái sấu để làm cơm ăn ngay tại Trại Bảo an binh vì cả ngày chúng tôi cũng như binh lính đều chưa ai ăn gì. Bữa cơm đạm bạc có rau luộc, nước canh với sấu dầm nhưng tôi thấy ngon vô kể trong niềm vui thắng lợi vẫn đang rộn lên”-bà Phúc bồi hồi nhớ lại.

Ngày Lễ độc lập

Nhắc về thời khắc lịch sử mùa Thu năm ấy trên Quảng trường Ba Đình, đôi mắt bà Phan Thị Phúc rưng rưng lệ, cảm xúc trào dâng niềm tự hào như mới ngày hôm qua, bà và đồng bào được tự do hát lên khúc ca khải hoàn của dân tộc. 

“Trước ngày 2-9-1945, tôi thao thức không ngủ. Nghĩ về ngày trọng đại, tôi được cùng các chị em đi mít tinh tại Quảng trường Ba Đình, được tham gia bảo vệ lễ đài và được hát Tiến quân ca là cảm giác vui sướng cứ trào dâng”-bà Phúc kể. Ngay từ sáng sớm ngày Quốc khánh, những dòng người tưởng như dòng nước chảy đồ về Quảng trường Ba Đình. Một khung cảnh hoành tráng mà bà chưa từng được nhìn thấy: Rừng người, biển cờ. Ai cũng mang trong mình niềm vui khôn xiết, xếp hàng ngũ chỉnh tề phấn khởi chờ đón thời khắc độc lập, tự do của dân tộc sau bao năm chịu xiềng xích nô lệ. Ngày hôm đó, không chỉ Hà Nội mà tại Huế, Sài Gòn và nhiều thành phố khác, các cuộc mít tinh lớn cũng được tổ chức. Hàng triệu trái tim người dân ở khắp dọc dài Tổ quốc cũng đang hồi hộp chờ đón thời khắc thiêng liêng.

Bà Phan Thị Phúc vẫn nhớ rõ như in bản thân được đứng ở ngay dưới chân kỳ đài. Ngay phía trên chính là lễ đài bằng gỗ đơn sơ và Bác Hồ-vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc đang đứng phát biểu. “Lần đầu tiên trông thấy Bác Hồ, vị lãnh tụ của dân tộc bằng da bằng thịt, tôi chảy nước mắt vì quá xúc động”, bà Phúc bồi hồi nhớ lại. Theo bà Phúc, khi ấy Bác nói bằng giọng Nghệ Tĩnh nhưng rõ ràng, từng chữ một nên đồng bào rất dễ nghe. Đang đọc Bản Tuyên ngôn độc lập thì lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cất tiếng “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”. Hàng nghìn người đồng thanh hô “Có ạ, có ạ”, “Rõ ạ, rõ ạ…”.
Giây phút “Tiến quân ca” do nhạc sĩ Văn Cao sáng tác vang lên, bà Phúc và tất thảy đồng bào ở Quảng trường lòng trào dâng niềm xúc động, tự hào hát theo lời ca âm vang hùng tráng.“Đoàn quân Việt Nam đi, chung lòng cứu quốc. Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa…”.

 Bà Phúc kể, vào khoảnh khắc ấy, ai cũng thấy tự hào, cũng rơi nước mắt khi hát. “Trước đó, tôi đã được hát bài “Tiến quân ca” do các chiến sĩ vệ quốc đoàn dạy. Nhưng phải đến ngày 2-9 năm 1945, khi được hát cùng đồng bào, tôi mới cảm nhận được hết giá trị thiêng liêng của bài ca này. Chưa khi nào tôi thấy mình lại vui, tự hào và có cảm giác linh thiêng như khi được hát thời khắc đó”. Khoảnh khắc hát “Tiến quân ca” dưới lá quốc kỳ trong ngày 2-9-1945 đã trở thành giây phút vĩnh cửu trong ký ức bà Phan Thị Phúc. Bài ca chứa đựng hạnh phúc của cả dân tộc, và hạnh phúc của cá nhân bà. Đó là bài ca chiến thắng, bài ca của những hy sinh mất mát không ngừng nghỉ trong suốt cuộc trường chinh kháng chiến.

Sau ngày Tết Độc lập một thời gian, đến khi Toàn quốc kháng chiến, bà Phúc được lệnh rút về Sơn Tây. Bà Phúc chia sẻ: “Sau hạnh phúc được hát Tiến quân ca không bao lâu, tôi có thêm hạnh phúc mới khi được nên duyên vợ chồng với ông Thạch nhà tôi”. Bà Phan Thị Phúc chính là vợ của chính trị gia, nhà ngoại giao lỗi lạc của Việt Nam-nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch. Sau ngày tiếp quản Thủ đô, bà Phúc đảm nhiệm vai trò Chủ nhiệm khoa Dược Bệnh viện Việt-Đức. Còn ông Nguyễn Cơ Thạch lại biền biệt với những chuyến công du quan trọng nhằm để thế giới hiểu và ủng hộ các cuộc đấu tranh chính nghĩa của Việt Nam. 

Cho chúng tôi xem những bức ảnh quý được sao lại một bản, bà Phúc xúc động nói: “Tôi đứng từ xa nhìn thấy Bác nhiều lần lắm, nhưng có 4 lần được gặp trực tiếp. Khi ấy mới thành lập nước, tôi được các chị trong Đội Phụ nữ cứu quốc thành Hoàng Diệu phân công phục vụ tiệc chiêu đãi của Chính phủ. Đúng lúc tôi đang sắp đồ kẹo bánh, Bác xuất hiện hỏi, cháu năm nay bao nhiêu tuổi. Tôi trả lời xong, Bác hỏi học lớp mấy, tôi đáp, cháu mới hết năm thứ nhất Thành Chung, nhưng cách mạng nổ ra nên cháu bỏ rồi. Bác liền nói, cháu phải học thêm nhé, học để phục vụ đất nước. Câu nói ấy của Bác khiến tôi nhớ mãi, sau này dành cả đời học tập”.

Năm 1979, do thường xuyên phải tháp tùng Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch đi công tác nước ngoài với vai trò là phu nhân, bà chuyển về công tác ở Bộ Ngoại giao và làm việc tại đây cho đến khi về hưu vào năm 1993. Với những tri thức đã lĩnh hội qua nhiều năm tháng và vốn ngoại ngữ tốt, bà nghiên cứu các tài liệu nước ngoài về kinh tế, quan hệ quốc tế rồi tóm tắt, trao đổi cùng chồng để hỗ trợ ông nắm bắt các xu hướng mới trên thế giới. Bà cũng chính là người đã đề xuất ý tưởng và hoàn thiện hồ sơ trình UNESCO đề nghị vinh danh Chủ tịch Hồ Chí Minh là Danh nhân văn hóa. Bà chia sẻ, dù tuổi đã cao nhưng bà vẫn muốn cống hiến cho xã hội những kiến thức, kinh nghiệm đã tích lũy được trong những năm tháng học tập và chiến đấu mà mình đã trải qua

Trang Linh

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Dự báo thời tiết
Thời tiết Hà Nội