Chiếc mũ nan của Anh hùng cắm cờ trên cứ điểm Him Lam
QPTĐ-Trong những ngày cuối tháng 4 đầu tháng 5, phòng trưng bày “Chiến thắng Điện Biên Phủ” của Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam có sức hút hơn đối với du khách trong và ngoài nước. Ai cũng muốn tìm hiểu về mốc son chói lọi này của dân tộc Việt Nam qua những thước phim quý giá kết hợp sa bàn mô phỏng và hơn 150 hiện vật đang được trưng bày ở đây. Bên cạnh “chiếc xe đạp thồ huyền thoại”, những khẩu súng trường từng nhả đạn giữa đồi A1, chiếc kèn acmonica phơi phới tinh thần lạc quan… là chiếc mũ nan của Anh hùng LLVT nhân dân-liệt sĩ Trần Can-một trong những tấm gương xuất sắc vì nước quên thân đã hy sinh đúng ngày giải phóng Điện Biên.
Chiếc mũ nan của Anh hùng liệt sĩ Trần Can được trưng bày ở Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam.
Đồng chí Trần Can sinh năm 1931 tại xã Sơn Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Tháng 5/1951, anh xung phong nhập ngũ vào Trung đoàn 209, Đại đoàn 312 (nay là Sư đoàn 312, Quân đoàn 1) và tham gia Chiến dịch Tây Bắc năm 1952. Với tinh thần mưu trí, dũng cảm trong chiến đấu, Trần Can trở thành một trong những Tiểu đội trưởng xuất sắc của Tiểu đoàn 130 và chiếc mũ nan đã song hành cùng anh từ những năm tháng ấy.
Mũ có hai phần: Cốt và tán. Nan mũ bằng tre vót trau chuốt, đã ngả màu cánh gián vì nhuộm mưa nắng, khói bom đạn và mồ hôi. Mũ đan theo kiểu nong mốt nhưng các ô thưa hơn, có tác dụng thông thoáng khi đội. Cốt mũ và vành mũ được bọc một lớp vải bông màu xanh lá cây đã bạc màu. Quai mũ buộc bằng ni lông, đoạn tiếp xúc hai má và cằm đồng chí Trần Can đã chuyển màu nâu, nhẵn bóng và giòn. Chiếc mũ gọn, nhẹ, thích hợp với bộ đội ta lúc đó và khí hậu nhiệt đới gió mùa Việt Nam. Lịch sử ra đời của chiếc mũ nan gắn liền với từng bước phát triển của ngành quân trang. Năm 1947, nền kinh tế kháng chiến non trẻ của ta hầu như chưa có gì, lại bị địch tàn phá và phong toả nên ăn và mặc của bộ đội chủ yếu dựa vào nhân dân, chỉ có thể tự túc một phần. Sẵn tre, nứa, giang, vầu của căn cứ địa Việt Bắc và vùng tự do Bắc Khu 4, các chiến sĩ ở vùng quê có nghề đan tre nứa cổ truyền đã mày mò “sản xuất” ra chiếc mũ nan đầu tiên. Lúc đầu, các chiến sĩ bọc mũ bằng lá rừng hoặc vải bông cắt ra từ quần áo cũ. Dần dần, phía trên lớp vải xuất hiện một vành lưới để cài lá ngụy trang. Đến cuối thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, cùng với nhiều trang bị khác, vải mũ được cấp phát. Lưới ngụy trang ít sử dụng lá cây mà phần lớn là cài những miếng vải dù hoa chiến lợi phẩm...
Bước vào chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, Tiểu đội trưởng Trần Can khâu thêm một miếng vải lên chỗ rách của chiếc mũ nan thân thuộc đã bạc màu. Ngày lên đường đã tới, tạm biệt rừng cọ đồi chè Phú Thọ, Trần Can và đồng đội kín đáo vượt sông Hồng sang Tây Bắc vào một đêm trăng mờ giá rét giữa tháng 12. Mười năm ngày đêm không nghỉ, anh và đồng đội đã vượt hơn 500km tới phía Đông thung lũng Điện Biên Phủ để bắt tay ngay vào một công việc nặng nhọc, thầm lặng: Kéo pháo-chuẩn bị cho Chiến dịch “Trần Đình” (Mật danh của Chiến dịch Điện Biên Phủ). Chiếc mũ nan lợp vải và chiếc áo trấn thủ của anh khô rồi lại ướt, ướt rồi lại khô do bao lần gặp mưa và đẫm mồ hôi. Những chiếc nan tre thấm đẫm mồ hôi lại càng thêm bền chắc. Sau 9 ngày đêm, Trần Can và đồng đội đã đưa mấy chục khẩu pháo 105mm và pháo phòng không 37mm vào vị trí quy định thì lại có lệnh kéo pháo ra ngay vì ta chuyển phương châm từ "đánh nhanh, giải quyết nhanh" sang “đánh chắc, tiến chắc”. Kéo pháo vào đã vất vả, kéo ra càng vất vả hơn nhưng không làm các anh nao núng tinh thần, thậm chí còn bĩnh tĩnh, dũng cảm “dập lửa cứu pháo” thành công.

Bộ đội ta xông lên chiếm cứ điểm Him Lam, mở màn Chiến dịch Điện Biên Phủ.