A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Đại tướng Đoàn Khuê - Nhà lãnh đạo, nhà chiến lược quân sự xuất sắc của Đảng và Quân đội

QPTĐ-Đại tướng Đoàn Khuê, bí danh là Võ Tiến Trình, sinh ngày 29/10/1923 ở làng Gia Đẳng, xã Triệu Tân (nay là xã Triệu Lăng), huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình giàu lòng yêu nước, có truyền thống đấu tranh cách mạng. Ðại tướng Ðoàn Khuê là nhà chính trị, quân sự xuất sắc của Ðảng, Quân đội với nhiều cống hiến, đóng góp cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đại tướng Đoàn Khuê với cán bộ chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô tháng 12/1996.

Ngay từ rất sớm, khi mới 16 tuổi (năm 1939), đồng chí đã tham gia phong trào Thanh niên phản đế ở Trường Tiểu học Trường Xuân, sau đó làm Bí thư Phủ ủy Thanh niên phản đế của phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Quảng Trị, Đoàn Thanh niên cứu quốc huyện Triệu Phong tổ chức rải truyền đơn kêu gọi nhân dân hưởng ứng khởi nghĩa Bắc Sơn đánh đuổi Nhật - Pháp. Biết đồng chí Đoàn Khuê là Bí thư Thanh niên cứu quốc huyện Triệu Phong, địch ráo riết truy tìm. Ngày 30/10/1940, đồng chí bị bắt, bị kết án tù ở nhà lao Quảng Trị, sau đó bị đưa đi đày ở Buôn Ma Thuột. Gần 5 năm trong nhà tù, đồng chí luôn tỏ rõ chí khí kiên cường, bất khuất trước sự đày ải và tra tấn dã man của kẻ thù, giữ vững khí tiết kiên cường của người chiến sĩ cách mạng. Thông qua thực hiện các nhiệm vụ tổ chức trong nhà tù phân công, như “Ủy ban vận động cách mạng”, công tác chi bộ, đồng chí được rèn luyện về phẩm chất đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ lý luận, hiểu biết về cuộc sống, dày dạn trong đấu tranh với quân thù và những kinh nghiệm tổ chức, vận động quần chúng đoàn kết.

Tháng 5/1945, đồng chí ra tù, về hoạt động, gây dựng cơ sở cách mạng ở tỉnh Quảng Bình; tháng 6/1945 đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và được cử làm Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh tỉnh Quảng Bình. Kiên cường, bất khuất trong lao tù đế quốc, nhạy bén tranh thủ thời cơ khởi nghĩa, đồng chí Đoàn Khuê đã góp phần tích cực vào thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân ở tỉnh Quảng Bình. Tháng 8/1946, đồng chí Đoàn Khuê được điều động vào chiến trường Khu 5, phân công làm Chính trị viên, Bí thư Đảng ủy Trường Lục quân trung học Quảng Ngãi; Chính trị viên, Bí thư Đảng ủy Tiểu đoàn Hồ Tích, Quảng Ngãi. Từ tháng 4/1947, đồng chí lần lượt đảm nhận vị trí Chính trị viên, Bí thư Đảng ủy các Trung đoàn 69, 73, 78, 126 và 84 Liên khu 5, Ủy viên Thường vụ Ban Cán sự Đắk Lắk. Tháng 5/1953, đồng chí là Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Trung đoàn 108, Liên khu 5; từ cuối năm 1954 đến năm 1957 đồng chí là Phó Chính ủy Sư đoàn 305 Liên khu 5, Phó Chính ủy Đại đoàn 675, Chính ủy - Bí thư Đảng ủy Sư đoàn 351. Tháng 3/1958 đến năm 1960, đồng chí là Chính ủy - Bí thư Đảng ủy Lữ đoàn 341, Ủy viên Đảng ủy Quân khu 4. Từ tháng 10/1960, đồng chí là Phó Chính ủy Quân khu 4, Ủy viên Đảng ủy Quân khu 4. Đầu năm 1963 đến năm 1975, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta bước vào thời kỳ quyết liệt, Khu 5 trở thành địa bàn chiến lược bị địch đánh phá nặng nề, đồng chí Đoàn Khuê được cử trở lại chiến trường Khu 5 với cương vị ủy viên Thường vụ Khu ủy, Phó Chính ủy Quân khu, Phó Bí thư Đảng ủy Quân khu 5, Chính ủy Mặt trận Tây Nguyên. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (12/1976), đồng chí được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được bổ nhiệm làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu, Bí thư Đảng ủy Quân khu 5 từ tháng 12/1976 đến tháng 3/1983. Từ tháng 4/1983 đến tháng 11/1986, đồng chí được giao nhiệm vụ làm Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh 719, Phó trưởng ban rồi Trưởng ban đoàn chuyên gia giúp nước bạn Campuchia; Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Bộ Tư lệnh 719, cùng tập thể Đảng ủy và Bộ Tư lệnh 719 lãnh đạo các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ quốc tế cao cả. Từ tháng 12/1986 đến 01/1998, đồng chí được Đảng, Nhà nước cử giữ các trọng trách quan trọng, như: Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, rồi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương. Đại tướng Đoàn Khuê là ủy viên Trung ương Đảng khoá IV đến khóa VIII; là ủy viên Bộ Chính trị các khoá VI, VII, VIII; là đại biểu Quốc hội các khoá VII, VIII, IX và X. Đồng chí được Đảng và Nhà nước phong quân hàm Thiếu tướng năm 1974, Trung tướng năm 1980, Thượng tướng năm 1984 và Đại tướng năm 1990.

Những năm đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, trên cương vị là Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, với những bài học kinh nghiệm thực tiễn rất phong phú, tầm nhìn chiến lược sâu rộng, đồng chí đã đề xuất, tham mưu với lãnh đạo Đảng, Nhà nước nhiều chủ trương đúng đắn về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; tổ chức thực hiện thành công cuộc điều chỉnh chiến lược chuyển từ đề phòng chiến tranh xâm lược quy mô lớn sang đối phó với xung đột vũ trang, “chiến tranh phá hoại nhiều mặt”, “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ. Với tư duy chính trị, quân sự sắc sảo, đồng chí đã góp phần đánh giá tình hình thế giới, khu vực và cục diện cách mạng nước ta, các khả năng đe dọa an ninh đối với Tổ quốc và với chế độ, đề ra và tổ chức thực hiện thành công cuộc điều chỉnh chiến lược quân sự quan trọng. Trên cơ sở đó, bố trí lực lượng và tổ chức phòng thủ phù hợp trên các hướng, các địa bàn, vùng biển đảo, biên giới đất liền, các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa... bảo đảm khả năng phòng thủ của từng địa phương và cả nước vững chắc trong mọi tình huống. Đồng chí là người lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện quan điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng, chủ trì thực hiện chủ trương xây dựng các tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc, trực tiếp chỉ đạo nhiều cuộc diễn tập khu vực phòng thủ của các tỉnh, thành phố trong cả nước. Đồng chí có nhiều đóng góp vào việc thực hiện chủ trương xây dựng quân đội theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, góp phần giữ vững an ninh chính trị, tạo môi trường hòa bình, ổn định trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Chân dung Đại tướng Đoàn Khuê.

Suốt 60 hoạt động cách mạng, dù trong lao tù đế quốc thực dân, trên khắp các chiến trường nóng bỏng hay trong sinh hoạt công tác đời thường, Đại tướng Đoàn Khuê luôn đem hết sức lực, trí tuệ của mình phục vụ sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Trên mọi cương vị, đồng chí luôn thể hiện rõ tài năng chính trị - quân sự xuất sắc song toàn, phẩm chất cao quý của người chiến sĩ cộng sản, giản dị, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, kiên trung, bất khuất trước mọi khó khăn, gian khổ, hiểm nguy, sẵn sàng hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân, có nhiều đóng góp to lớn vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam, góp phần xây dựng quân đội “cách mạng, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp, khả năng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội, làm phong phú thêm nền nghệ thuật quân sự Việt Nam. Cuộc đời Đại tướng Đoàn Khuê là tấm gương mẫu mực về phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, tận trung với Đảng, tận hiếu với dân. Đánh giá công lao của đồng chí, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã khẳng định: “Trải qua nhiều cương vị khác nhau, dù ở đâu, làm gì, đồng chí cũng luôn luôn đem hết sức mình cống hiến cho Đảng và nhân dân, đặt lợi ích chung của cách mạng, của Quân đội lên trên lợi ích cá nhân, luôn luôn trau dồi kiến thức, sâu sát cơ sở, quan tâm tổng kết thực tiễn, giữ vững tính đảng, tính nguyên tắc, phấn đấu hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao”. Đó chính là phẩm chất tiêu biểu của tướng lĩnh Quân đội: Trí - Dũng - Nhân - Tín - Liêm - Trung để các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội tiếp tục học tập, noi theo trong thời kỳ mới.

Tùng Chi

 

 


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Phóng sự ảnh
Dự báo thời tiết
Thời tiết Hà Nội
Tỷ giá ngoại tệ